Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Chia sẻ cùng bạn thị trường của những kẻ mạnh

Không khai trương mới nhưng Nguyễn Kim lại liên tiếp khởi công xây dựng ba trung tâm mua sắm tại TP.HCM, Cần Thơ, Đà Nẵng. Ngày 21/1 tới đây, trung tâm mua sắm thứ tư của DN này sẽ chính thức hoạt động tại Thủ Đức. Đây được xem là phát pháo mở màn cho chiến dịch mở 11 trung tâm mua sắm mới của Nguyễn Kim trong năm nay.
Năm 2010, ngành điện máy, điện tử chứng kiến cuộc đua tăng tốc giành thị phần của các DN trong nước. Đã có khá nhiều trung tâm điện máy được khởi công xây dựng cùng với một loạt điểm kinh doanh mới được khai trương. Thế nhưng, không phải cứ mở cửa hàng là thành công.
Buôn có bạn, bán có phường
Ngay đầu tháng 1/2010, Siêu thị điện máy Chợ Lớn đã mở màn cho chiến lược phát triển hệ thống phân phối của các DN kinh doanh điện máy bằng hai siêu thị có diện tích 5.000m2, nâng điểm kinh doanh của DN này lên con số 17.
Siêu thị điện điện máy WonderBuy
Không dừng lại ở 4 trung tâm mua sắm tại TP.HCM, tháng 4/2010, sau gần hai năm xây dựng, Công ty Thiên Nam Hòa (công ty mẹ của chuỗi trung tâm điện máy Thiên Hòa) đã khai trương trung tâm thứ năm với diện tích 8.000m2 tại Gò Vấp. Với tổng vốn đầu tư lên đến 58 tỷ đồng, đây là trung tâm kinh doanh điện máy lớn nhất của Thiên Hòa tại TP.HCM.
Hai tháng sau khi Thiên Hòa khai trương trung tâm thứ năm, “tân binh” WonderBuy của Công ty CP Điện máy - Máy tính - Viễn thông Hợp Nhất cũng chính thức tham gia trị trường điện máy TP.HCM bằng một trung tâm có diện tích 5.800m2, nằm ở vị trí “đắc địa” tại quận 1.
WonderBuy đã “chào sân” một cách hoành tráng bằng các chương trình khuyến mãi, giảm giá ấn tượng, thu hút hàng ngàn lượt người mua sắm mỗi ngày.
Với sự ra mắt này, WonderBuy được đánh giá là đối thủ đáng gờm của các “bậc đàn anh”. Không dừng lại ở một thương hiệu mới, tháng Mười một, thị trường tiếp tục chứng kiến sự xuất hiện của một tên tuổi mới là Home One.
Mới đây nhất, ngày 22/12/2010, Công ty CP Thương mại Thế Giới Điện Tử, một thương hiệu mạnh trong lĩnh vực phân phối điện thoại di động, laptop và các sản phẩm kỹ thuật số, cũng đã “lấn sân” sang lĩnh vực điện máy bằng siêu thị điện máy Thegioidientu.com tại TP.HCM.
Dù mới hoạt động một tháng nhưng nhà đầu tư này đã lên kế hoạch mở 8 siêu thị Thegioidientu.com trong năm 2011 song song với 150 cửa hàng Thegioididong.com phủ đều trong cả nước.
Không khai trương mới nhưng Nguyễn Kim lại liên tiếp khởi công xây dựng ba trung tâm mua sắm tại TP.HCM, Cần Thơ, Đà Nẵng. Ngày 21/1 tới đây, trung tâm mua sắm thứ tư của DN này sẽ chính thức hoạt động tại Thủ Đức. Đây được xem là phát pháo mở màn cho chiến dịch mở 11 trung tâm mua sắm mới của Nguyễn Kim trong năm nay.
Trung tâm thương mại Nguyễn Kim ở Đà Nẵng với tổng vốn đầu tư hơn 1.200 tỷ đồng dự kiến khai trương vào ngày 2/9/2011, còn trung tâm tại Cần Thơ sẽ hoạt động vào đầu năm 2012.
Ở phía Bắc, Công ty CP Pico cũng đã khai trương siêu thị điện máy thứ ba tại Hà Nội. Và hiện tại, Công ty này đang triển khai kế hoạch “Nam tiến” bằng một trung tâm kinh doanh hoành tráng ở TP.HCM.
Sức ép tăng từng ngày
Kết quả khảo sát và nghiên cứu thị trường của GFK và AC Nielsen cho thấy, nhu cầu tiêu thụ trong ngành công nghiệp bán lẻ điện máy Việt Nam có thể đạt khoảng 4 tỷ USD/năm về doanh thu.
Tuy nhiên, hiện nay, doanh số bán lẻ chung của các thị trường chỉ đạt khoảng 1,2 - 1,3 tỷ USD, tương đương 40%, còn đến 60% thị trường chưa được khai thác. Năm 2010, các sản phẩm công nghệ tăng trưởng 20%, riêng điện thoại di động đã tăng đến 30%.
Ông Nguyễn Minh Thư, Phó tổng giám đốc Trung tâm điện máy Thiên Hòa cho rằng, có nhiều nguyên nhân khiến thị trường tăng trưởng mạnh. Đó là nhờ kinh tế phát triển, mức sống của người dân tăng cao.
Các sản phẩm liên quan đến tiện nghi sinh hoạt trong gia đình như điện máy, điện tử sẽ trở thành nhu cầu tất yếu của người dân. Và thị trường càng tiềm năng thì cạnh tranh càng khốc liệt.
Mặt khác, thị trường bán lẻ Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn từ đầu năm 2010, các DN trong nước còn e ngại sẽ có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. “Hiện nay, lĩnh vực bán lẻ hàng điện máy chưa có nhà đầu tư nước ngoài, nhưng như vậy không có nghĩa là họ sẽ không vào.
Các DN trong nước đang củng cố, xây dựng, hoàn thiện hơn nữa nguồn lực khi có thể. Và đây là xu hướng tất yếu và cũng là thời điểm thuận lợi nhất để DN tìm thị phần cho mình”, ông Thư phân tích.
Theo đánh giá của các chuyên gia, cuộc đua trên thị trường điện máy hiện nay diễn ra hằng ngày chứ không còn tính theo tháng hay năm. Việc này thấy ngay qua các chương trình khuyến mãi. Hầu hết các trung tâm điện máy, dù đã có thương hiệu hay mới xuất hiện, đều phải tổ chức hàng loạt chương trình kích cầu mua sắm.
Nguyễn Kim, thương hiệu được người tiêu dùng xếp vị trí hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh hàng điện máy, nhưng hệ thống này năm qua đã phải duy trì vị trí bằng rất nhiều chương trình khuyến mãi với kinh phí lên đến hàng tỷ đồng.
Các đối thủ như Thiên Hòa, Thegioidientu.com, WonderBuy cũng theo sát nút bằng những chương trình khuyến mãi rầm rộ không kém. Chỉ riêng chương trình “Mua sắm thả ga, trúng ba căn nhà” của Thegioidientu.com đã lên đến gần 4 tỷ đồng.
Thế nhưng, “sẽ còn nhiều hoạt động kích cầu hoành tráng hơn nữa trong thời gian tới”, ông Đinh Anh Huân, Tổng giám đốc Thegioidientu.com, tiết lộ.
Không chỉ cạnh tranh bằng khuyến mãi, giảm giá bán, các DN còn cạnh tranh bằng chế độ hậu mãi, dịch vụ bán hàng... Trong đó, Thiên Hòa tái cấu trúc bộ máy nhân sự, xây dựng đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp.
Nguyễn Kim thì hoàn thiện dịch vụ bán hàng bằng việc thành lập trung tâm dịch vụ bán hàng, đầu tư vào công nghệ thông tin song song với đẩy mạnh quảng bá thương hiệu.
Chỉ còn cửa hẹp và rất hẹp
Lĩnh vực phân phối hàng điện tử, điện máy từng thu hút cả các quỹ đầu tư lớn như Mekong Capital, Aureos Capital. Chẳng hạn, Aureos Đông Nam Á (ASEAF) đã đầu tư 4,2 triệu USD vào Công ty CP Thế giới số Trần Anh (Hà Nội). Theo tiết lộ của đại diện một thương hiệu điện máy có tiếng tại TP.HCM, kinh doanh điện máy hiện nay trong tình trạng “thu không đủ bù chi”.
Nhiều DN đang hết sức khó khăn để cầm cự vì không có khách. Chẳng hạn như Ideas, dù đang sở hữu hai mặt bằng hoành tráng trên đường Cách mạng Tháng Tám (Q.3) và Nguyễn Tri Phương (Q.5), nhưng cả hai trung tâm đều rất vắng khách. Tương tự, ngay khi ra đời, lãnh đạo trung tâm WonderBuy đặt mục tiêu trở thành nhà bán hàng điện máy lớn và chuyên nghiệp tại Việt Nam với 23 trung tâm trong cả nước.
Thế nhưng, mới đây, khi chúng tôi hỏi về tiến độ triển khai các trung tâm này, lãnh đạo WonderBuy từ chối tiết lộ vì “thời điểm này chúng tôi không muốn nói điều gì”. Khó khăn không kém, Siêu thị điện máy Best Carings tại Lotte Mart mở cửa từ năm 2008, đến nay, doanh số mỗi tháng chỉ còn chưa đầy nửa tỷ đồng.
Cùng với các trung tâm điện máy cũ, chuyện lỗ đối với các trung tâm mới mở là đương nhiên. “Gia nhập thị trường này, chúng tôi xác định sẽ phải chịu lỗ trong 2 - 3 năm đầu.
Thị trường cạnh tranh khốc liệt nhưng đây cũng là thời điểm tốt để xuất hiện. Sau một, hai năm nữa, khi thị trường đã định vị rồi thì rất khó chen chân”, ông Huân nói.
Không chỉ khó khăn, cầm cự để mong chờ cơ hội mới, không ít thương hiệu đã bị “xóa sổ”, nhường thị trường cho DN mạnh hơn. Siêu thị điện máy Lộc Lê sau nhiều năm kinh doanh thất bại đã đóng cửa. Cùng cảnh ngộ là siêu thị Vietnamshop.com.
Theo giới trong ngành phân tích, đây là kết quả tất yếu trong cuộc cạnh tranh trên thị trường. Các DN không đủ tiềm lực kinh tế, không chuyên nghiệp trong kinh doanh cũng như không chọn được hướng đi đúng chắc chắn sẽ thất bại. Best Carings thuộc Công ty tiếp thị thương mại Bến Thành với ba siêu thị tại Hà Nội, TP.HCM, Cần Thơ.
Năm 2004, ngành điện máy chưa có nhiều trung tâm kinh doanh hiện đại như bây giờ nên Tổng giám đốc Lê Hồng Xuân và những người sáng lập Best Carings đặt mục tiêu đến năm 2012 sẽ mở 13 trung tâm trong cả nước. Thế nhưng, chỉ vài năm sau đó, ngành bán lẻ phát triển mạnh, vì thế, việc tìm kiếm mặt bằng hết sức khó khăn.
Công ty cũng đã từng đặt vấn đề nhượng quyền thương hiệu của Best Denki (Nhật Bản) để học hỏi kinh nghiệm của thương hiệu này nhưng không thành. Lý do cũng là vì khó kiếm được mặt bằng theo đúng tiêu chuẩn của Best Denki. “Mở Best Carings ở quận 7 cũng chỉ là miễn cưỡng vì không có mặt bằng tốt hơn.
Với điểm kinh doanh này chúng tôi muốn đón lượng khách khổng lồ từ “thành phố Sunrire City” nhưng dự án này chưa hoàn thành thì Lotte Mart đã mở, buộc lòng chúng tôi cũng mở theo”, đại diện Công ty tiếp thị thương mại Bến Thành chia sẻ. Bán lẻ khó khăn, đơn vị này mở thêm kênh bán sỉ với thương hiệu Tara. Thế nhưng, chính chiến lược này đã gây khó khăn hơn cho công ty.
Mâu thuẫn lợi ích giữa bán lẻ với bán sỉ khiến khách hàng sỉ của Tara lần lượt ra đi. Không có lợi thế về bán lẻ, lãnh đạo Công ty tiếp thị thương mại Bến Thành chọn kênh bán sỉ và tháng 8/2010, Công ty đã sang lại thương hiệu Best Carings cho DN khác. “Từ khi chuyên về bán sỉ, khách hàng của Tara tăng lên thấy rõ. Những đối tác đã ra đi giờ quay trở lại”, đại diện thương hiệu Tara cho biết.
Ngược với những thương hiệu nhỏ, các “ông lớn” như Nguyễn Kim, Thiên Hòa đều cho biết không chỉ đầu tư vào lĩnh vực điện máy, mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác. Hai dự án của Nguyễn Kim ở Đà Nẵng và Cần Thơ sẽ không chỉ kinh doanh hàng điện máy, mà còn kinh doanh trung tâm thương mại, dịch vụ, văn phòng, khách sạn.
Tương tự, trong 5 siêu thị tại TP.HCM và 10 siêu thị ở các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ... sẽ mở trong 5 năm tới của Thiên Hòa sẽ gồm thời trang, ẩm thực, giải trí... 
 

Khám phá quá trình đua với online

Cạnh tranh không kém hình thức bán hàng trực tiếp, các DN liên tục cập nhập sản phẩm, giá bán cũng như các chương trình khuyến mãi. Nếu như Nguyễn Kim có hàng chục ngàn sản phẩm giảm giá đặc biệt dành cho khách mua hàng online, hoặc giảm ngay 1 triệu đồng, thì Siêu thị Điện máy Chợ Lớn có chương trình “Online đúng giờ giá giảm bất ngờ” dành cho khách mua hàng qua mạng vào buổi tối
Siêu thị điện máy Thiên Hòa
Ngoài kênh bán hàng truyền thống tại các cửa hàng, siêu thị điện máy, hiện các DN trong lĩnh vực này đều đã xây dựng website để quảng bá và bán hàng trực tuyến. Những năm qua, thị trường điện máy khá sôi động và còn rất tiềm năng.
Trước đây, người dân chưa có điều kiện tiếp cận các sản phẩm công nghệ nhưng nay, hầu hết các thương hiệu lớn trên thế giới về điện tử, điện máy, công nghệ thông tin đã có mặt ở Việt Nam.
Những sản phẩm mới của các hãng này đã có mặt tại Việt Nam chỉ sau một thời gian ngắn xuất hiện trên thị trường thế giới. Theo các chuyên gia, những sản phẩm sẽ tiêu thụ mạnh và bùng nổ trong những năm tới là tivi LCD, máy lạnh, bếp gas, nồi cơm điện và đặc biệt là các sản phẩm về công nghệ thông tin, như laptop, điện thoại di động, máy chụp ảnh, máy nghe nhạc... sẽ tăng trưởng đột biến.
Chính sự tăng trưởng này đã khiến các DN không còn hờ hững với kênh bán hàng qua internet và đã đầu tư mạnh vào lĩnh vực này. Ông Nguyễn Anh Thư, Phó tổng giám đốc Trung tâm điện máy Thiên Hòa, cho rằng, trực tuyến là kênh bán hàng hiện đại mà các nước đang sử dụng và Việt Nam cũng đã bắt đầu phát triển.
Trong vài năm gần đây, Thiên Hòa cũng không đứng ngoài “cuộc chơi” này. Thế Giới Điện Tử nhiều năm nay đã “đưa” không ít điện thoại di động, laptop và các sản phẩm kỹ thuật số cho người tiêu dùng thông qua bán hàng trực tuyến.
Hiện nay, hầu hết các DN kinh doanh lĩnh vực này đều đã có website và đã triển khai hình thức bán hàng này. Có thể kể đến những địa chỉ như: nguyenkim.com, phankhang.vn, dienmaycholon.vn, WonderBuy.vn, thienhoaelectric.com.vn...
Cạnh tranh không kém hình thức bán hàng trực tiếp, các DN liên tục cập nhập sản phẩm, giá bán cũng như các chương trình khuyến mãi.
Nếu như Nguyễn Kim có hàng chục ngàn sản phẩm giảm giá đặc biệt dành cho khách mua hàng online, hoặc giảm ngay 1 triệu đồng, thì Siêu thị Điện máy Chợ Lớn có chương trình “Online đúng giờ giá giảm bất ngờ” dành cho khách mua hàng qua mạng vào buổi tối.
Còn Trung tâm mua sắm Phan Khang luôn giảm giá 5% trên hóa đơn cho khách hàng thành viên mua đồ điện gia dụng qua mạng...
Theo các DN, bán hàng online đang phát triển khá tốt. Tại Trung tâm điện máy Chợ Lớn có rất nhiều khách hàng, đặc biệt là giới nhân viên văn phòng và bạn trẻ, đã hưởng ứng và đặt hàng qua mạng.
Thegioidientu.com tuy mới ra mắt website 15 ngày nhưng mỗi ngày đã có 20.000 lượt khách hàng truy cập. Nhiều nhà kinh doanh đánh giá cao kênh bán hàng này của Thegioidientu.com vì tuy chưa có nhiều khách mua hàng online, nhưng với thời gian ngắn mà Thegioidientu.com có lượng người truy cập như thế là quá thành công.
Và “từ chỗ khách xem hàng, dọ giá đến đặt mua sản phẩm sẽ không còn xa mấy. Vấn đề còn lại là nhà phân phối phải làm sao để người tiêu dùng tin tưởng vào uy tín thương hiệu của mình”, một nhà kinh doanh bán hàng qua mạng nhận xét.
Trước đây, Thiên Hòa cũng đã có trang web nhưng chủ yếu quảng bá thương hiệu là chính. Trước nhu cầu tăng cao của người tiêu dùng, Thiên Hòa đã đầu tư mạnh vào kênh bán hàng này.
“Xác định tầm quan trọng không thể thiếu của bán hàng online, chúng tôi quyết định thành lập Trung tâm kinh doanh online và xem đây như một chi nhánh của Công ty. Trung tâm này sẽ có hệ thống tổ chức nhân sự như tất cả các trung tâm điện máy khác của Thiên Hòa”, ông Thư tiết lộ.
Nhập khẩu hàng điện tử còn tiếp tục tăng
Năm 2010, ước tính nhập khẩu nhóm mặt hàng điện tử đạt hơn 5,141 tỷ USD, vượt 23% so với 4,869 tỷ USD của năm 2009. Dù biến động tỷ giá từ quý IV/2009 đã kìm hãm tốc độ nhập khẩu hàng điện tử và linh kiện điện tử, nhưng giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng này đã tăng 23% trong năm 2010 và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng trong năm 2011.
Thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, nhu cầu tiêu dùng vẫn tăng cao (đặc biệt các sản phẩm điện tử cao cấp và nhập khẩu nguyên chiếc) cộng với việc các DN có vốn đầu tư nước ngoài có nhà máy ở Việt Nam phục hồi sản xuất sau khủng hoảng đã đẩy mạnh việc nhập khẩu này thêm một bước cao hơn. Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc mặt hàng này, nhưng mức tăng 60% trong vòng 12 tháng (tháng 12/2009 - 12/2010) cho thấy sức ép của hàng Trung Quốc đã đánh bật sản phẩm của các quốc gia như Singapore, vốn được coi là trạm trung chuyển hàng điện tử đứng đầu thế giới. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng rơi lại vị trí thứ hai và thứ ba, sau Trung Quốc.
Với việc mở cửa thị trường bán lẻ từ năm 2009, cộng với lộ trình giảm thuế theo Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định thương mại ASEAN - Trung Quốc, kim ngạch và giá trị hàng điện tử và linh kiện nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2011 dự kiến sẽ tăng ít nhất 5 - 10%, đặc biệt là máy tính xách tay, máy tính để bàn và tivi nguyên chiếc do giá cả các mặt hàng ngoại nhập và trong nước lắp ráp, sản xuất không chênh lệch nhiều.

Giới thiệu với bạn về việc phân cực và chia nhánh

Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ giá trị gia tăng của MobiFone cho biết, có thời điểm dịch vụ giá trị gia tăng mang đến cho MobiFone gần 25% doanh thu. Vì điều này mà tính đến nay, MobiFone đã có hơn 40 dịch vụ giá trị gia tăng khác nhau. Mới đây nhất là mSpace, mGame, mStory, mPlus... tạo bất ngờ cho khách hàng.
Trong một thị trường đang ở thời điểm bão hòa, sẽ không còn chỗ cho các doanh nghiệp (DN) mới, ngay cả những DN đang có thị phần cũng buộc phải cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển. Đầu tư ra nước ngoài và sáp nhập, hợp tác để gia tăng cạnh tranh là xu hướng tất yếu trong những năm tới.
Sau thời kỳ bùng nổ với hàng loạt nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ra đời thì thị trường trong hai năm trở lại đây bắt đầu bão hòa và phân cực rõ rệt. Trong khi những nhà mạng nhỏ vẫn đang vật vã trong hành trình tìm kiếm khách hàng thì ba DN cung cấp dịch vụ viễn thông là VinaPhone, MobiFone và Viettel luôn an toàn trong mức tăng trưởng đều.
Viễn thông thời hoàng kim
Năm 2010 đã đánh dấu một giai đoạn khó khăn trên con đường phát triển của dịch vụ viễn thông. Nền kinh trế Việt Nam vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đã tác động lên thị trường viễn thông nói chung và thị trường các dịch vụ thông tin di động nói riêng.
Trong bối cảnh như thế, điều đáng ngạc nhiên là ba “ông lớn” của ngành viễn thông Việt Nam là VinaPhone, MobiFone và Viettel đều đảm bảo tăng trưởng mạnh. Hai đơn vị VNPT và Viettel lọt vào nhóm 10 DN lớn nhất Việt Nam.
Đơn vị công bố tăng trưởng và tỷ suất lợi nhuận trong ngành viễn thông sớm nhất là Viettel. Khép lại năm 2010, Viettel đã hoàn thành toàn diện và vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra trong năm 2010.
Cụ thể, tổng doanh thu của Viettel đạt 91.561 tỷ đồng, tăng 52% so với năm 2009. Lợi nhuận của đơn vị này đạt 15.500 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân đạt 48,3%.
Trong năm 2010, tập đoàn này phát triển mới 46,3 triệu thuê bao di động và 1,17 triệu thuê bao 3G. Số thuê bao di động hai chiều mới trong năm 2010 của Viettel đạt 2,1 triệu thuê bao và có tổng số thuê bao hoạt động trên toàn mạng là 49,9 triệu thuê bao.
Dù có mức tăng trưởng đẹp mắt nhưng trong cuộc đua 100.000 tỷ đồng với “đối thủ” VNPT thì Viettel cũng là người đến trễ. Tập đoàn VNPT năm 2010 đạt doanh thu 101.569 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2009 và nộp ngân sách 7.855 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu VinaPhone đạt trên 28.172 tỷ đồng, vượt 106% so với kế hoạch đề ra. B
ên cạnh tăng trường về mặt doanh thu, VinaPhone có thêm khoảng 10 triệu thuê bao mới. Nhích hơn một chút, doanh thu của MobiFone đạt 36.034 tỷ đồng, hoàn thành 100,09% kế hoạch đề ra, tăng 31,5% so với năm 2009. Tuy nhiên, thuê bao thực phát triển của nhà mạng này chỉ 5,95 triệu thuê bao.
Bão hòa trên đỉnh cao
Viettel đã chính thức vươn ra thị trường Đông Dương - Ành: Quý Hiếu
Hầu hết các nhà mạng đều có chung đánh giá, thị trường viễn thông Việt Nam đã tương đối bão hòa với tỷ lệ người dùng gần cao nhất khu vực. Tốc độ tăng trưởng chung trên thị trường đang bị chậm lại trong bối cảnh có quá nhiều nhà khai thác. Doanh thu tăng trưởng chậm, cạnh tranh giữa các nhà cung cấp càng trở nên quyết liệt.
Ba năm qua chứng kiến cuộc chạy đua giảm giá tới mức quyết liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ, đẩy các nhà mạng nhỏ vào “cửa tử”. “Cước dịch vụ tiếp tục giảm và đang tiến đến sát với giá thành”, ông Tạ Nhật Nguyên, Phó phòng kinh doanh tiếp thị VinaPhone nhận định.
Chính vì vậy, cuộc đua của những năm sắp tới chỉ nhắm vào phát triển dịch vụ cộng thêm. Song song với cạnh tranh về cước, dịch vụ giá trị gia tăng, đặc biệt là các dịch vụ trên nền 3G cũng là một cuộc chiến không ngừng nghỉ giữa các nhà mạng.
Không phải ngẫu nhiên, MobiFone thành lập hẳn một trung tâm Dịch vụ giá trị gia tăng để cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Ngoài việc tạo nên sự hấp dẫn để thu hút và giữ chân khách hàng thì đây cũng là mảnh đất màu mỡ để nhà mạng hốt bạc.
Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ giá trị gia tăng của MobiFone cho biết, có thời điểm dịch vụ giá trị gia tăng mang đến cho MobiFone gần 25% doanh thu. Vì điều này mà tính đến nay, MobiFone đã có hơn 40 dịch vụ giá trị gia tăng khác nhau. Mới đây nhất là mSpace, mGame, mStory, mPlus... tạo bất ngờ cho khách hàng.
Không kém cạnh, VinaPhone cũng liên tục tung ra các dịch vụ giá trị gia tăng như Vclip, Vinasport, GameLoft, TeenPortal, GoMobile, NhómTeen, Imedia, TiniPet, MangaMob, MoMo, Money Transfer, SmartNhómup...
Theo thống kê của VinaPhone, doanh thu từ gần 40 dịch vụ phi thoại của nhà mạng này tăng mạnh trong năm 2010, đạt 21% trên tổng số doanh thu của VinaPhone. Nhà mạng này còn có tham vọng sẽ thiết lập được một mạng xã hội trên di động để tạo cộng đồng người dùng di động.
Hình thức cạnh tranh có khác nhau nhưng điều đáng ghi nhận là cả ba nhà mạng này đều chú trọng đến việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, lắp đặt trạm thu phát sóng... để đảm bảo dịch vụ tốt nhất.
Vừa đầu tư không ngừng, vừa phải giảm cước liên tục để thu hút và giữ chân thuê bao..., thách thức mà những DN lớn trong ngành viễn thông phải đối đầu không khó thấy nhưng trong cơn khó ấy, sự tăng trưởng không ngừng cho thấy nỗ lực hết mình của từng DN.
Phát triển đã khó, phát triển trong môi trường bão hòa, số thuê bao vượt dân số như hiện nay lại càng khó. Đó chính là lý do các ông lớn cũng e dè trong việc đặt mục tiêu phấn đấu.
VinaPhone dự kiến doanh thu toàn mạng trong năm 2011 đạt khoảng 30.224 tỷ đồng, tăng 11% so với thực hiện năm 2010. Thuê bao di động thực tăng tối thiểu 5 triệu thuê bao. Viettel cũng đặt mục tiêu tăng trưởng 19%, tương đương với doanh thu đạt trên 109.000 tỷ đồng.
Sự kém tự tin của nhà mạng khi đề ra tỷ lệ tăng trưởng cho năm 2011 không bằng 2010 cho thấy độ bão hòa của thị trường ngày một cao. Với sự bão hòa này, “ông lớn” còn e dè thì huống gì là những nhà cung cấp mạng có quy mô nhỏ? 
Thị trường trong nước đã đến điểm bão hòa khiến một số DN đã phải tính đến tìm kiếm thị trường nước ngoài, điển hình là Viettel, VNPT. Trong ba nhà mạng lớn hàng đầu Việt Nam thì Viettel là thành công hơn cả trong việc vươn ra khỏi biên giới, đầu tư vào thị trường viễn thông nước ngoài. Sóng 3G của Viettel đã phủ rộng ở ba nước Đông Dương. Tính đến thời điểm này, Viettel đã có trên 18.000 trạm 3G tại 3 nước Đông Dương. Năm 2010, Viettel còn tiếp tục mở rộng đầu tư sang các thị trường mới xa hơn và khó khăn hơn là Haiti (châu Mỹ) và Mozambique (châu Phi).
VinaPhone đã hòa mạng mới 3.541 trạm phát sóng BTS 2G và 2570 trạm BTS 3G. Đến cuối năm 2010, tổng số trạm phát sóng VinaPhone đã có gần 21.000 trạm BTS 2G, 3G đang hoạt động. Phía MobiFone cũng đã có hơn 20.000 trạm phát sóng hiện đại và vẫn liên tục mở rộng dung lượng mạng lưới để nâng cao khả năng phục vụ, hướng tới số lượng thuê bao lớn h

Chia sẻ cùng bạn năm của xu hướng mua bán, sáp nhập

Trong bối cảnh các nhà cung cấp mạng di động quy mô nhỏ ở Việt Nam tăng trưởng đìu hiu, lay lắt tồn tại, cuối năm 2010, dư luận cũng khá bất ngờ với thông tin FPT sẽ nhảy vào thị trường dịch vụ viễn thông di động trong thời gian tới. Thủ tướng đã đồng ý về mặt nguyên tắc cho phép EVN Telecom chọn Tập đoàn FPT và Công ty Viễn thông FPT làm nhà đầu tư chiến lược khi tiến hành cổ phần hóa.
Hình ảnh những chú gà Beeline đang vắng bóng trên thị trường
Trong danh sách các “tiểu gia” viễn thông di động có mặt từ sớm tại Việt Nam là S-Telecom với thương hiệu dịch vụ S-Fone. Ngay từ khi mới ra đời S-Fone đã khiến khách hàng ngả nghiêng với chính sách cước cho cặp đôi thuê bao. Nhờ chính sách này mà S-Fone đã khơi dòng chảy cho thói quen dùng hai số di động của những người dùng di động.
Dù đã sở hữu thuê bao di động, dù S-Fone có độ phủ sóng không rộng nhưng thời điểm ban đầu, vẫn có rất nhiều khách hàng đến với S-Fone. Tuy nhiên, sức cạnh tranh quyết liệt đã đẩy nhà mạng này vào thế khó.
Năm 2010, S-Fone chỉ phát triển mới được 520.000 thuê bao di động, trong đó có 8.200 thuê bao trả sau và 10.099 thuê bao điện thoại cố định. Tổng kết, trong năm 2010, doanh thu của SPT chỉ vỏn vẹn 1.165 tỷ đồng.
Năm 2010 đã chứng kiến sự hụt hơi của một số nhà cung cấp dịch vụ, trong đó Cityphone đã chính thức rời thị trường, S-Fone cũng đang ngoi ngóp và EVN phải bán cổ phần cho một công ty khác với hy vọng tiếp tục cuộc đua.
Để cạnh tranh và tồn tại, các nhà mạng lớn nhỏ đều khai thác triệt để các dịch vụ có thể kiếm ra tiền, kể cả dịch vụ cho đối tượng thu nhập thấp như dành cho sinh viên, nông dân, học sinh...
VinaPhone khai trương dịch vụ mới MoMo
Sự ngoắc ngoải của mô hình DN viễn thông kết hợp với đối tác ngoài cũng là tình hình của Hanoi Telecom và Hutchison. Hai đơn vị này vẫn chưa thể đưa Vietnamobile qua giai đoạn khó khăn sau khi chuyển từ công nghệ CDMA qua GSM.
Mặc dù liên tục đưa ra các gói cước khuyến mại cực sốc, gần đây nhất là chương trình Nói rẻ bất ngờ, Nói ra vàng... và cố gắng phủ màu cam của mình lên khắp đường phố, phương tiện thông tin đại chúng... nhưng người dùng vẫn chưa mặn mà lắm với nhà mạng này.
Thê thảm hơn, những chú gà Beeline gần như mất hút trên thị trường sau một thời gian. Không quảng bá, không áp dụng chính sách mới... khách hàng của Beeline đang thấp thỏm chờ đợi động thái mới của nhà mạng này.
Trong bối cảnh các nhà cung cấp mạng di động quy mô nhỏ ở Việt Nam tăng trưởng đìu hiu, lay lắt tồn tại, cuối năm 2010, dư luận cũng khá bất ngờ với thông tin FPT sẽ nhảy vào thị trường dịch vụ viễn thông di động trong thời gian tới. Thủ tướng đã đồng ý về mặt nguyên tắc cho phép EVN Telecom chọn Tập đoàn FPT và Công ty Viễn thông FPT làm nhà đầu tư chiến lược khi tiến hành cổ phần hóa.
Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, cả nước hiện có 162,88 triệu thuê bao điện thoại, trong đó, di động chiếm 91,2%
Theo chỉ đạo của Thủ tướng, sau khi trở thành nhà đầu tư chiến lược tại EVN Telecom, Tập đoàn FPT và Công ty Viễn thông FPT phải nắm giữ hơn 50% vốn điều lệ của tổ chức này trong suốt quá trình hoạt động.
Thông tin từ FPT cho hay, Tập đoàn này đang trong quá trình thương thảo để tìm ra phương hướng hoạt động tốt nhất cho sự hợp tác này.
Bà Chu Thanh Hà, Tổng giám đốc FPT Telecom cho biết, DN này muốn được thử nghiệm mạng di động băng rộng với hai công nghệ 4G là LTE và WiMAX. Thời gian cấp phép thử nghiệm sẽ tiến hành trong vòng khoảng 1 năm.
FPT Telecom gần như đã đi từ con số 0, vươn lên sánh ngang ngửa với các đại gia viễn thông kinh doanh internet băng rộng cho dù họ kém lợi thế hơn rất nhiều. Động thái đầu tư vào EVN Telecom cho thấy, FPT Telecom muốn tiến sâu hơn nữa với dịch vụ vốn được xem là đem lại nhiều lợi nhuận trong lĩnh vực viễn thông là thông tin di động.
Băng tần 3G và hạ tầng của EVN Telecom sẽ giúp DN tiềm lực như FPT Telecom trở thành một đối thủ lớn khác trên thị trường di động. Dù vụ mua bán này chưa thành hiện thực nhưng cũng cho thấy, thị trường viễn thông mặc dù đã hẹp nhưng vẫn có nhiều đối thủ nhăm nhe nhảy vào, tất nhiên đó thực sự phải là những đối thủ có tiềm lực lớn. 
Thương hiệu di động
Câu chuyện theo nghiên cứu của Tạp chí Campaign và Công ty Nielsen công bố tháng 12/2010, trong nhóm 10 thương hiệu hàng đầu Việt Nam có đến 2 thương hiệu DN viễn thông: MobiFone xếp hạng thứ tư và Viettel xếp hạng thứ bảy. Từ một vị trí đơn lẻ trong nhóm 10 năm 2009 (khi đó Viettel đứng thứ 4), ngành thông tin di động đã bứt phá đi lên với hai thương hiệu tên tuổi, ngang với những ngành như bán lẻ (Big C, Co.op Mart), hay điện tử - tin học (Nokia, Sony).
Việc hai DN MobiFone và Viettel lọt vào nhóm 10 không có gì đáng ngạc nhiên, và càng không có gì phải ngạc nhiên khi các thương hiệu di động tăng tốc lên ngoạn mục và ngự trị đến 2 DN trong bảng vàng nhóm 10.
Theo chuyên gia marketing Lý Trường Chiến, thương hiệu muốn mạnh thì trước hết DN phải có chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt. MobiFone lâu nay được biết đến là mạng di động có chất lượng ổn định nhất, tỷ lệ rớt cuộc gọi thấp nhất.
Còn Viettel là một DN có chính sách kinh doanh táo bạo, có độ nhận diện thương hiệu cao. Trường hợp MobiFone, chân ướt chân ráo bước vào bảng vàng nhưng đã soán ngay ngôi vị số 4 mà Viettel đã ngự trị một năm trước đó là một kết quả xứng đáng trong một quá trình dài phấn đấu xây dựng thương hiệu của nhà mạng này.
Với tổng doanh số thị trường viễn thông Việt Nam năm 2010 đạt hơn 226.000 tỷ đồng, chuyên gia Lý Trường Chiến cho rằng, các thương hiệu di động nói riêng và viễn thông, CNTT nói chung lọt vào nhóm 10 thương hiệu hàng đầu Việt Nam là tất yếu. “Thời đại công nghệ số phát triển vượt bậc đã phục vụ đắc lực và hợp lý cho nhu cầu xã hội, trong đó có những nhu cầu bức thiết và cần thiết. Chính vì thế các thương hiệu công nghệ số, trong đó có thương hiệu điện thoại di động và mạng di động, tạo được dấu ấn mạnh mẽ trong đời sống xã hội”, ông Chiến nhận định. Như vậy, năm 2010 là năm ngành thông tin di động bội thu về thành quả lẫn thương hiệu. 

Tìm hiểu về việc e dè, chờ đợi, xoay xở

Về vấn đề vốn, ông Phan Hữu Đễ, Tổng thư ký Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, kiến nghị: “Tôi cho rằng, NH cần nâng định mức cho vay để giải tỏa áp lực vốn giúp DN. NH cần mở rộng hầu bao bằng cách tăng thời gian cho vay lên 6 tháng thay vì 3 tháng như hiện nay. Cần đảm bảo ưu tiên cơ cấu tín dụng chảy về xuất khẩu".
Mặc dù quý I là thời điểm để triển khai các kế hoạch đầu tư và sản xuất, nhưng với mức lãi suất như hiện nay, nhiều DN đã không không dám đầu tư mạnh tay, thậm chí còn phải “nằm im chờ đợi”.
Khó thở đầu năm
Ông Phạm Ngọc Châu, Giám đốc Công ty Sữa Hancofood tỏ vẻ bức xúc khi nói đến khó khăn về vốn: “Chúng tôi vừa mới giành được chút thị phần trên thị trường nội địa nhờ cuộc vận động ưu tiên dùng hàng Việt Nam, nên tập trung vốn để đầu tư thiết bị, máy móc, nâng cao chất lượng sản phẩm và kìm giá nhằm nâng cao giá trị cạnh tranh. Đang nỗ lực như vậy thì nay quả tạ lãi suất dường như đè bẹp mọi thứ!”.
Thiếu vốn là nỗi lo lớn nhất của nhiều DN trong năm 2011 - Ảnh: Quý Hòa
Thực vậy, với ông Châu, cái khó của người làm chủ DN là khi lợi nhuận tiếp tục giảm, lương công nhân cũng giảm theo. Ngược lại, nếu muốn lợi nhuận vẫn tăng trưởng bình thường, đưa chi phí lãi suất vào giá thành sản phẩm thì ngay lập tức người tiêu dùng chịu thiệt.
Ông Châu thở dài nói rằng: “Trong năm 2010, Hancofood chỉ tăng giá có một lần và dừng ở mức 7%, nhưng với tình hình này, e rằng khó mà kìm giá được”.
Áp lực vốn không chỉ đè lên những DN sản xuất, mà ngay cả những DN kinh doanh dịch vụ cũng than khó. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Hương, tổng giám đốc hệ thống siêu thị Vinatex Mart, mặc dù đã quyết tâm đầu tư 20 dự án trong năm 2011, nhưng với mức lãi suất như hiện nay khiến Công ty phải dè dặt tính toán lại.
Bởi vì, tổng nguồn vốn mà Vinatex Mart dự kiến đầu tư trong năm 2011 lên đến hơn 500 tỷ đồng để triển khai các dự án còn dang dở như dự án xây dựng tổng kho ở Gia Lâm (Hà Nội), các siêu thị ở Sóc Trăng, Phan Thiết, Bình Dương...
“Tuy nhiên với lãi suất cao như hiện nay, dù nguồn vốn vay NH chỉ chiếm khoảng 30 - 40% trong tổng nguồn vốn đầu tư nhưng đã gây nhiều khó khăn cho DN. Trước mắt, chúng tôi sẽ xếp hàng các dự án thực hiện theo hướng lựa chọn ưu tiên, đồng thời chờ lãi suất giảm mới tính toán tiếp”, bà Hương cho biết.
Tại buổi giao ban về tình hình xuất nhập khẩu mới đây, ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết, năm 2011, khó khăn lớn nhất đối với DN là thiếu vốn. Với lãi suất như hiện nay, DN sẽ khó tiếp cận vốn vay NH.
Trước khó khăn của DN, Bộ Công Thương cho rằng, NH Nhà nước cần triển khai đồng bộ các giải pháp tài chính - tiền tệ để giảm lãi suất xuống mức hợp lý. Các NH thương mại cần nâng hạn mức tín dụng cho xuất khẩu, dành ưu tiên cho các DN vay mua hàng hóa xuất khẩu, tăng tỷ lệ cho vay tín chấp dựa trên phương án sản xuất, kinh doanh.
Nhận định về lần điều chỉnh tỷ giá lần thứ tư của Việt Nam mới đây, giới phân tích nước ngoài có những ý kiến khuyến nghị về việc khắc phục những hạn chế mà việc điều chỉnh tỷ giá có thể đem lại. Trong đó, vấn đề nổi cộm nhất nằm ở lãi suất.
Mặc dù NH Nhà nước Việt Nam tỏ ra khá hài lòng với mức lãi suất hiện nay, Standard Chartered khuyến cáo Việt Nam cần có mức lãi suất cao hơn để phòng ngừa những rủi ro kinh tế tăng trưởng quá nóng. Tăng trưởng nóng khiến Chính phủ chủ trương siết chặt tín dụng, tập trung vào chất lượng cho vay hơn là con số tăng trưởng.
Mới đây, NH Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 23% trong năm 2011 so với 25% của năm 2010. Chính vì vậy, nguồn vốn cho DN chắc chắn sẽ hạn chế hơn và sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng doanh thu năm nay của các DN.
Về vấn đề vốn, ông Phan Hữu Đễ, Tổng thư ký Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, kiến nghị: “Tôi cho rằng, NH cần nâng định mức cho vay để giải tỏa áp lực vốn giúp DN. NH cần mở rộng hầu bao bằng cách tăng thời gian cho vay lên 6 tháng thay vì 3 tháng như hiện nay. Cần đảm bảo ưu tiên cơ cấu tín dụng chảy về xuất khẩu".
Theo ông Phạm Phương Đông, Trưởng phòng Phát triển thị trường, Công ty CP Tư vấn thương mại dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân, với mức lãi suất như hiện nay, cả nhà đầu tư và DN đều chỉ còn biết “ngồi chơi, chờ thời”.
Nhiều DN cho biết, dù quý I là thời điểm triển khai các kế hoạch đầu tư và sản xuất, nhưng với mức lãi suất như hiện nay, họ chỉ còn mong chờ một sự thay đổi từ NH Nhà nước chứ không dám đầu tư mạnh tay...
Gồng mình xoay xở
Năm 2010, các DN đã thu hút được gần 47.000 tỷ đồng qua kênh chứng khoán, tăng gần gấp bốn lần so với năm 2009. Điều này cho thấy, kênh chứng khoán không phải hoàn toàn khép kín như nhiều người vẫn nghĩ.
Tuy nhiên, đối với nhóm DN cổ phần tư nhân, việc tìm vốn sẽ rất khó khăn vì họ không có nhiều lựa chọn như DN niêm yết. Cho dù họ có gõ cửa các NH thì cũng không dễ vay tiền.
Than thở là thế nhưng không có nghĩa là các DN trong nước bắt đầu co cụm và thu hẹp các hoạt động kinh doanh theo kiểu “liệu cơm gắp mắm”. Thậm chí, khi tiếp xúc với các DN với số vốn hạn chế, họ vẫn có thể xoay xở được để tiếp tục làm ăn.
Cụ thể, DN nào có tài sản thế chấp thì vay NH và các nguồn vốn khác, chịu rủi ro cao hoặc phải "bán lúa non" các hợp đồng nhận được từ khách hàng...
Chị Liên Hoa, giám đốc của một công ty chuyên về thiết kế và cung cấp thiết bị văn phòng cho biết, những đơn hàng lớn làm chị cạn kiệt nguồn tiền mặt vì khách hàng thanh toán chậm, nhà thầu phụ thì đòi nợ, lãi suất NH cứ tăng dần...
Nhận thấy khó khăn, chị Hoa cân nhắc đến chuyện cho người khác hùn vốn vào công ty để cả hai cùng có lợi. Trước đó, nhiều người khuyên nên vay NH là giải pháp tối ưu nhất.
Tuy nhiên, chị nhận thấy rằng việc kinh doanh bị gián đoạn xuất phát từ khâu thu hồi nợ nên quyết tâm tìm đối tác để vừa hỗ trợ về vốn, vừa có thể giúp chị có những kế sách kinh doanh, thu hồi nợ hiệu quả thay vì phải đi vay mượn NH.
Tương tự, việc tự xoay sở vốn của chị Lương Thị Mỹ Hằng, Giám đốc Công ty CP In bao bì Đạt Thành, cũng trở thành kinh nghiệm cho nhiều người. Theo chị Hằng, thiếu vốn chỉ làm chậm khả năng phát triển của công ty thôi, chứ không ảnh hưởng gì nhiều về hoạt động và phát triển.
Vì vậy, chị đã giải quyết bài toán thiếu vốn khi nhận được một đơn hàng lớn bằng cách liên kết với các đối tác khác làm cùng ngành nghề. “Có lẽ nhiều người sẽ e ngại rằng sau đó đối tác khác lấy mất khách hàng của mình, nhưng chuyện này rất khó xảy ra. Bởi vì, khi ta đã biết liên kết và kết hợp thì không sợ mất khách hàng lớn, chỉ có điều lợi nhuận sẽ giảm”, chị Hằng giải thích.
Dự báo về diễn biến lãi suất năm nay, ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc NH Đông Á, cho rằng, lãi suất cho vay thỏa thuận có thể sẽ giảm sau Tết Nguyên đán, khi lạm phát được kiểm soát.
Tuy nhiên, để kéo lãi suất giảm xuống, vấn đề tỷ giá cần phải được giải quyết. Bởi lẽ, thời gian qua, lãi suất tăng cao một phần là do tác động tiêu cực từ việc tỷ giá tăng.
 

Cùng khám phá vấn đề không để vốn trong một rổ... ngân hàng

Quả thực, khi được hỏi làm thế nào để quỹ đầu tư rót vốn vào DN, ông Trần Vĩnh An, Giám đốc Tài chính Quỹ đầu tư SEAF, nói ngay, một trong những tiêu chí hàng đầu mà các quỹ đầu tư đặt ra là đội ngũ cán bộ quản lý giỏi. Các DN Việt Nam cần những người có khả năng lãnh đạo và kỹ năng xây dựng đội ngũ nhân viên để tạo nên những tổ chức vững mạnh và làm giàu cho cổ đông.
Chiếc phao mang tên "quỹ đầu tư"
Ông Trần Kim Thành, Chủ tịch HĐQT Kinh Đô Group, nói rằng: “Khi hỏi vì sao thiếu vốn kinh doanh, người ta lập tức trả lời rằng, nguyên nhân là do DN có vốn điều lệ thấp và NH siết chặt tín dụng, không cho vay nhiều. Nhưng trên thực tế, vấn đề không chỉ có vậy.
Ảnh: Quý Hòa
Vì ngoài hai nguyên nhân chính nêu trên, các nguyên nhân dưới đây cũng được xem là có tác động không nhỏ đến lượng tiền mặt cần thiết cho hoạt động của DN: bị khách hàng chiếm dụng công nợ; bị nhà cung cấp siết nợ; quản lý luồng hàng kém; quản lý dòng tiền mặt kém. Do vậy, nếu được xử lý tốt, những khó khăn trên có thể sẽ không là vấn đề lớn, thậm chí họ có thể lọt vào mắt của các nhà đầu tư lớn”.
Quả thực, khi được hỏi làm thế nào để quỹ đầu tư rót vốn vào DN, ông Trần Vĩnh An, Giám đốc Tài chính Quỹ đầu tư SEAF, nói ngay, một trong những tiêu chí hàng đầu mà các quỹ đầu tư đặt ra là đội ngũ cán bộ quản lý giỏi. Các DN Việt Nam cần những người có khả năng lãnh đạo và kỹ năng xây dựng đội ngũ nhân viên để tạo nên những tổ chức vững mạnh và làm giàu cho cổ đông.
Bên cạnh đó, quản trị DN và minh bạch tài chính là hai yếu tố cơ bản để các quỹ xem xét trong quá trình thẩm định đầu tư. Các công ty cần chuẩn bị và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về hệ thống báo cáo tài chính, kể cả việc sử dụng các công ty kiểm toán có uy tín để thực hiện kiểm toán các báo cáo của công ty trên cơ sở hằng năm.
Chỉ cần có vậy, DN dù lớn dù nhỏ vẫn có thể lấy được tiền từ túi của các quỹ đầu tư. Trên thực tế, trong năm 2011 này, sự trở lại của các quỹ là khá nhiều, như VinaCapital, Mekong Capital, Indochina Capital, SAM, VAM... đang chi một số tiền không nhỏ để đầu tư vào các DN tư nhân trong nước. Đây chính là cơ hội để các DN tiếp cận và thể hiện mình trước nguồn vốn lớn này.
Tìm cách "bơi xa bờ"
Không cần làm bài toán chính xác cũng thấy, với nhu cầu vay mượn để mua sắm hàng tiêu dùng của người dân, với số công ty vừa ra đời, với số công trình xây dựng ngày một gia tăng khắp cả nước thì gánh nặng lên vai những NH trong nước ngày càng lớn.
Việc vay mượn đã khó khăn nay lại càng khó nên một số DN có khả năng đã bắt đầu tìm cách “ra biển lớn” kéo theo nhiều hy vọng cho các DN nhỏ và vừa. Và sự kiện Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) phát hành trái phiếu quốc tế để huy động 200 triệu USD vào cuối tháng 12/2010 đã trở thành phát pháo vượt biển của DN trong nước năm 2011.
Theo ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HAGL, lý do ra nước ngoài huy động vốn là vì vay vốn trong nước khó khăn và lãi suất cao. Dự kiến lãi suất trái phiếu của HAGL sẽ khoảng từ 8 - 10%, thanh toán 6 tháng một lần cho đến ngày đáo hạn.
Thực ra trước đó, cuối năm 2009, Công ty CP Vincom (VIC) cũng đã phát hành thành công 100 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế với mức lãi suất 6% trong thời hạn 5 năm đã giúp DN này giải quyết được khá nhiều vấn đề về vốn.
Nhiều người nói rằng, phương án này chỉ phù hợp đối với các DN “cá mập”, chứ đối với các DN tư nhân nhỏ bé, họ làm sao có thể "vượt biển" mà không “lật thuyền”.
Thế nhưng, nhân dịp ký kết hợp tác với Công ty Chứng khoán DMG & Partners (Singapore), ông Nguyễn Hồ Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Chứng khoán Sacombank (SBS) đã khẳng định, việc tìm kiếm vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không khó nếu các DN trong nước thực sự tin rằng họ có thể làm được.
Cụ thể, sau lần ký kết này, SBS sẽ lựa chọn 10 DN tốt đang thiếu vốn tại Việt Nam bước đầu tham gia những chương trình Roadshow quốc tế do DMG triển khai. Ngoài ra, SBS cũng đang nỗ lực khai thác thị trường vốn tại Lào, Campuchia... để các DN trong nước dễ dàng tiếp cận nguồn vốn lớn tại các nước lân cận này.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc tìm vốn từ bên ngoài nếu thành công, sẽ khơi thông kênh huy động mới cho các DN trong nước. Uy tín của DN cũng được nâng cao bởi tính minh bạch, công khai. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, rủi ro trên sân chơi lớn cũng được các chuyên gia cảnh báo là không thiếu, vì vậy, DN phải thận trọng để không phải trả giá đắt khi bước ra "sân chơi" vốn ngoại.
Và bơi ao nhà
Không ít DN đã tự xoay xở bằng cách nhìn lại hoạt động kinh doanh của mình, và điều này đang thực sự tạo ra hiệu quả. Là một DN nghiệp lớn, ông Nguyễn Ngọc Anh, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư Thương mại SMC chia sẻ kinh nghiệm: DN nào cũng phải gắn kết với nguồn vốn của NH.
Do vậy, nếu DN nào luôn lựa chọn phương án nhờ vào nguồn vốn NH thì buộc phải coi trọng việc trả nợ và coi quá trình trả nợ là quá trình tạo ra hiệu quả - đó là lấy chiến thuật làm chiến lược, lấy chiến lược để nuôi chiến thuật.
Ông lý giải: “Năm nay tôi nợ 50 tỷ đồng, tôi trả nợ đúng hạn, thực hiện rất nghiêm túc các lời cam kết, thì sang năm người ta sẽ cho mình vay 80 tỷ đồng hoặc hơn nữa...
Đó là cách tạo ra nguồn vốn thuận lợi để phục vụ sản xuất kinh doanh. Nếu so với các nguồn vốn khác thì NH luôn là kênh dẫn rất hiệu quả, cực kỳ nhanh, tuy rằng lãi suất có hơi cao, nhưng giải quyết kịp thời, đáp ứng được vấn đề thời cơ trong kinh doanh của DN”.
Tuy nhiên, đối với những DN không thể tiếp cận được với NH thì cũng nên coi trọng việc quản lý dòng tiền mặt trong kinh doanh có thể giúp DN khơi thông được nguồn vốn.
Đồng tình với quan điểm này, TS. Nguyễn Hữu Long, nói rằng, quản lý dòng tiền tốt là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng nguồn vốn hạn hẹp một cách khoa học và hiệu quả.
Nhiều DN hoàn toàn không phải vì thiếu vốn, nhưng do quản lý dòng tiền kém nên thường lâm vào hoàn cảnh “giật gấu vá vai”. Muốn quản lý dòng tiền tốt, DN phải hoạch định và kiểm soát các khoản thu, chi thật tốt.
Duy trì hoạt động kinh doanh bình thường trong thời kỳ khủng hoảng là cả tài năng và nghệ thuật của người chủ DN.
Như vậy, bài toán về vốn có thể được giải quyết nếu DN biết cách tận dụng quan hệ với nhà cung cấp, biết cách “gần gũi” hơn để hiểu rõ khách hàng (và cả khách hàng của khách hàng), biết cách quản lý luồng hàng và luồng tiền hợp lý.
PGS-TS. Trần Hoàng Ngân - Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP.HCM:
Nền kinh tế Việt Nam chia làm ba khu vực: đó là khu vực nhà nước, khu vực ngoài nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài. Trong đó, khu vực nhà nước đóng góp 35 - 36% GDP, khu vực ngoài nhà nước đóng góp 48% GDP và khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp 17 - 18% GDP. Nguồn vốn tín dụng cũng sẽ rải ra ba khu vực này, tuy nhiên đối với những DN nhỏ và vừa, DN tư nhân do đặc điểm vốn tự có thấp, tình hình tài chính chưa được kiểm toán, tài sản thế chấp cho NH cũng giới hạn, thương hiệu vẫn phải còn chờ thời gian nữa mới khẳng định niềm tin đối với người cho vay... những điều này cản trở tiếp cập vốn NH.

Cùng tìm hiểu việc khi doanh nghiệp nước ngoài tham gia xuất khẩu gạo

Ông nói: “Năm 2010 có đến 264 doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu nhưng trong thực tế chỉ có hơn 30 doanh nghiệp thực thụ làm gạo xuất khẩu. Nghị định 109 của Chính phủ về tổ chức kinh doanh xuất khẩu gạo vừa ban hành, có hiệu lực từ 2011 sẽ làm các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tập trung, có nguồn lực để có thể cạnh tranh. 
Gạo xuất khẩu qua cảng Sài Gòn - Ảnh: S.T
Trong tình hình thế giới gặp khó khăn về lương thực, nhu cầu mua gạo năm nay của các nước nhập khẩu vẫn ở mức cao. Một số nước từng ngừng nhập gạo nước ta như Indonesia nay đã ký hợp đồng nhập khẩu lượng gạo tương đương năm ngoái với 1,5 triệu tấn. Mới đây nhất, Bangladesh vừa ký nhập khoảng 250.000 tấn gạo giao trong tháng 2 này.
Riêng với thị trường truyền thống Philippines, Việt Nam hứa hẹn có thể cung ứng khoảng một triệu tấn gạo trong tổng lượng nhập gần hai triệu tấn năm nay.
Cho dù tình hình xuất khẩu gạo trong hai tháng đầu năm được đánh giá là khả quan, nhưng cuộc cạnh tranh không cân sức giành giật hạt gạo giữa các doanh nghiệp trong nước có lợi thế khác nhau, cũng như tình hình các đối tác nước ngoài chưa ký hợp đồng mua gạo chờ giá xuống, đã khiến Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) kêu gọi doanh nghiệp thành viên mua tạm trữ gạo để giữ giá.
Theo VFA, sẽ có tối đa 65 doanh nghiệp tham gia mua tạm trữ một triệu tấn gạo, thời gian tạm trữ kéo dài từ ngày 1/3 và kết thúc vào 15/4. Doanh nghiệp mua theo giá thị trường nhưng không thấp hơn 5.000 đồng/kg lúa khô đủ tiêu chuẩn xuất khẩu tại kho.
Giá gạo được dự báo sẽ tăng lên, bởi giá các loại lương thực khác như lúa mì, bắp… trên thế giới đang tăng mạnh, nguồn cung gạo không dư thừa so với nhu cầu.
Hơn nữa, dự kiến khoảng tháng 6 hoặc tháng 7 tới, Indonesia - một trong những khách hàng truyền thống của Việt Nam - sẽ tiếp tục mua gạo với khối lượng lớn.
Dựa vào các thông tin trên, VFA đề nghị các doanh nghiệp không nên hoang mang, dao động, để rồi vội vàng bán đổ bán tháo gạo với giá thấp. Dự kiến trong quý 1 năm nay, nước ta có thể xuất khẩu được 1,8 triệu tấn, và đây cũng sẽ là quý đầu tiên của năm xuất khẩu được nhiều nhất từ trước đến nay.
Tuy nhiên, niềm lạc quan ấy đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Đó là theo tiến trình hội nhập WTO, năm 2011 chúng ta phải mở cửa thị trường xuất khẩu gạo để các doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp tham gia.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp này từ nay sẽ không cần phải liên doanh, liên kết với các công ty trong nước mà sẵn sàng vươn dài cánh tay mua gạo trực tiếp từ nông dân. Và biết đâu rồi đây các doanh nghiệp trong nước có thể trở thành người cung cấp lúa gạo cho các đối tác nước ngoài xuất khẩu gạo.
Chuẩn bị cho quá trình mở cửa này, hồi đầu năm nay Chính phủ đã quy định rõ các công ty nước ngoài khi vào kinh doanh gạo tại Việt Nam phải đảm bảo có kho chuyên dùng bảo quản lúa với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn, xây dựng cơ sở lúa gạo có công suất cao và có sự thỏa thuận giá cả bình đẳng trong mua bán.
Nhưng yêu cầu trên đây không có gì khó khăn với doanh nghiệp nước ngoài vì họ có thể vay vốn với lãi suất 4,5%/năm (doanh nghiệp trong nước, nhất là các công ty tư nhân đang khó tiếp xúc nguồn vốn và chịu lãi suất 16%/năm). Họ lại có thị trường ổn định toàn cầu trong khi chúng ta đang loay hoay tính toán lợi hại qua việc xuất khẩu sang các thị trường truyền thống gần gũi.
Điều này khiến ông Trương Thanh Phong, chủ tịch VFA, một mặt cảnh báo rằng năm 2011 sẽ là năm xuất khẩu gạo đứng trước nhiều thách thức, nhưng đồng thời động viên doanh nghiệp trong nước hãy giữ sự tự tin trong cuộc cạnh tranh này.
Ông nói: “Năm 2010 có đến 264 doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu nhưng trong thực tế chỉ có hơn 30 doanh nghiệp thực thụ làm gạo xuất khẩu. Nghị định 109 của Chính phủ về tổ chức kinh doanh xuất khẩu gạo vừa ban hành, có hiệu lực từ 2011 sẽ làm các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tập trung, có nguồn lực để có thể cạnh tranh. 
Các doanh nghiệp nhỏ trong thời gian tới có thể trở thành chân rết cung ứng cho doanh nghiệp nước ngoài. Cho nên ngoài việc cung ứng cho các khách hàng truyền thống, khách hàng tập trung, Tổng công ty Lương thực Miền Nam đang hướng tới xây dựng kho dự trữ với trữ lượng một triệu tấn gạo, cũng như sản xuất các loại gạo đem lại giá trị gia tăng.
Hợp đồng do Tổng công ty liên kết với Cục Trồng trọt tạo vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao xuất khẩu đã thực hiện hơn 10.000 hécta, đang mở rộng theo yêu cầu của người làm lúa”.
Nhìn chung thì việc tham gia thị trường xuất khẩu gạo của doanh nghiệp nước ngoài sẽ là một động lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước nếu họ không muốn lợi nhuận thuộc về người khác.
Nhiều năm qua, Hiệp hội Lương thực và các thành viên của họ chỉ sử dụng thương lái làm cánh tay nối dài đến nông dân và xuất khẩu mà không có thương hiệu, không có thị trường ổn định, năm nào  cũng lên kế hoạch, phân bổ chỉ tiêu, năm nào cũng bàn chuyện giá cả, cũng có nhiều chỉ đạo mang tính đối phó với thị trường.
Rồi đây với sự có mặt của doanh nghiệp nước ngoài, nông dân không còn bị o ép, có quyền chọn lựa và được bảo đảm rằng hạt gạo kết tinh lao động cần cù của mình sẽ được định giá đúng mức, sẽ có nơi “chọn mặt gửi vàng” mà không phải cầu cạnh ai.
Trong chừng mực nào đó sự tham gia xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước làm ăn trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, xóa dần tâm lý chụp giật và trên tất cả là tạo cơ hội cho người nông dân đổi đời.
Cho đến nay, tại Đồng bằng sông Cửu Long, vùng trọng điểm lương thực cả nước, vẫn còn vang vọng điệp khúc “được mùa mà vẫn lo”, có người sạt nghiệp vì cây lúa, nợ nần chồng chất mùa trước vẫn mong chờ hy vọng le lói ở mùa sau.
Đây không chỉ là nỗi đau xót của người nông dân mà còn là nỗi lo triền miên của những nhà làm kế hoạch, mà nguyên nhân chính là chúng ta vẫn chưa hình thành một chiến lược xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn còn dựa vào ưu đãi của thiên nhiên.
Không ai có thể phủ định vị trí cây lúa trong nền kinh tế đất nước và vai trò của nó trong việc đảm bảo an ninh lương thực. Thế nhưng hạt lúa sẽ mãi là chuyện bận tâm nếu chúng ta chưa có một chiến lược thị trường lâu dài cho nó.
Tuy Việt Nam vẫn còn trong danh sách ba nước đứng đầu về xuất khẩu gạo, nhưng xu hướng thị trường thế giới hiện nay không cho chúng ta sự lạc quan lâu dài. Ngày càng nhiều thị trường đòi hỏi gạo chất lượng cao mà chúng ta thì chỉ sản xuất được gạo chất lượng thấp.
Tham gia vào thị trường rộng mở nhưng do tâm lý tiểu nông còn đè nặng nên chúng ta luôn bị động: ta bán sản phẩm sẵn có chứ không phải bán sản phẩm người khác cần. Về mặt này đối thủ nặng ký của chúng ta là Thái Lan rõ ràng vượt trội, hiếm khi họ bị mất thị trường truyền thống cho nên luôn giữ được kim ngạch cao.
Nhiều năm qua chúng ta đã có chủ trương xây dựng những vùng lúa đặc sản để tăng giá trị xuất khẩu nhưng chưa làm được bao nhiêu, một phần do chưa tìm được thị trường ổn định trong khi chi phí sản xuất loại gạo này khá cao, một phần dưới sức ép của vấn đề an ninh lương thực nên gạo năng suất cao vẫn còn đất đứng.
Với sự xuất hiện của các công ty nước ngoài vào thị trường xuất khẩu gạo, hy vọng những hạn chế này sẽ được khắc phục, tập quán làm ăn của doanh nghiệp trong nước phải thay đổi, không chỉ vì yêu cầu tồn tại mà còn vì vấn đề đạo lý là trả lại sự công bằng cho người nông dân.
Nhà Nông học GS-TS Võ Tòng Xuân:
Theo tôi việc mở cửa thị trường gạo cho các công ty nước ngoài vào tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo trực tiếp tại Việt Nam là có lợi. Các công ty Việt Nam phải sớm từ bỏ cách làm ăn xổi ở thì, chỉ làm hại cho nông dân.
Tổng Công ty Lương thực (Vinafood) cũng như các thành viên thuộc Hiệp hội Lương thực Việt Nam không tạo nguồn nguyên liệu của họ mà chỉ sử dụng các thương lái, mà thương lái thì lại ép giá, lợi dụng nông dân. Do đó gạo xuất khẩu bị tạp nham, đủ các loại giống, trộn vào với nhau nên khi xuất thì không có thương hiệu, đồng thời làm cho danh tiếng gạo Việt Nam bị mai một.
Việc các công ty nước ngoài vào sẽ kích thích nhu cầu làm ăn chân chính. Các công ty nước ngoài vào có nghĩa là sẽ giúp cho nhà nông trồng lúa có thị trường ổn định hơn, và khi họ vào thì họ sẽ tổ chức sản xuất, họ có nguồn nguyên liệu của họ. Họ sẽ ký hợp đồng cụ thể với nhà nông để trồng và chế biến một giống chứ không phải nhiều giống và như vậy nhà nông sẽ làm ra loại gạo tốt hơn. Tốt cho nhà nông và giúp cho gạo Việt Nam từ từ có uy tín trên thế giới. Đồng thời cũng tạo ra công bình cho các tỉnh có nông dân trồng lúa.